Катюша – Thuần-Nhi ca – Catherine


Bài hát “Thuần-Nhi ca” (Катюша) thuộc thể loại trữ tình âm hưởng dân ca và có tính chất hành khúc do Matvei Isaakovich Blanter phổ nhạc (27/11/1938) từ thơ Mikhail Vasilyevich Isakovsky viết trong thời bình nhưng lại được phổ biến rộng rãi trong chiến tranh.

Nội dung bài hát với ngôn từ êm dịu nói về nỗi nhớ nhung của một người con gái tên là Thuần-Nhi đang chờ đợi người thương của mình còn đang phục vụ trong quân ngũ. Tên bài hát Katyusha (phiên âm latin của Катюша) bắt nguồn từ tên thân mật của Ekaterina theo truyền thông ở Thuyền-Nhân-Quốc (Russia).

Có một vài nhà phê bình cho rằng bài hát “Thuần-Nhi ca” không phải là tác phẩm hoàn chỉnh của Matvei Isaakovich Blanter, vì giai điệu tương tự như vậy đã được Igor Fyodorovich Stravinsky sử dụng trong vở nhạc kịch “Mavra” vào năm 1922, và sau đó sửa lại để đưa vào vở “Chanson Russe” vào năm 1937.

Bài hát có mối liên hệ với biệt danh của dàn hỏa tiễn BM-13 cũng hết sức nổi tiếng của Hồng quân Hội-Liên trong đệ nhị thế chiến (còn gọi là “Chiến tranh Vệ quốc Vĩ đại”). Giai điệu bài hát cũng đặc biệt trở thành cảm hứng cho một bài hát cách mạng ở Ấu-Ngưu-Quốc (Italy).

Bản chuyển nghĩa nguyên gốc (khớp nhạc và hát được) của Thiện Duyên thực hiện theo nguyên tắc chính niệm ca từ. Hoàn thành lần đầu ngày 19/08/2021 và chỉnh lí lần cuối ngày 19/08/2021.

Lời gốc

Расцветали яблони и груши,
Поплыли туманы над рекой;
Выходила на берег Катюша,
На высокий берег, на крутой.

Выходила,песню заводила
Про степного,
сизого орла, Про того, которого любила,
Про того, чьи письма берегла.

Ой,ты песня, песенка девичья,
Ты лети за ясным солнцем вслед,
И бойцу на дальнем пограничье
От Катюши передай привет.

Пусть он вспомнит девушку простую,
Пусть услышит, как она поёт,
Пусть он землю бережёт родную,
А любовь Катюша сбережёт.

English meaning translation by Ciao:

LỜI 1
Apple and pear trees were blooming,
With mists over the rivers floating.
Katyusha went ashore steeply,
Singing on the river bank merrily.

LỜI 2
Her song has been amazing,
Of eagles over steppes flying,
And of her sweetheart there,
Whose letters are kept with care.

LỜI 3
Now the girl’s melody so fine,
Flies with the bright sunshine,
To the soldier near the border,
With Katyusha’s sincere ardor.

LỜI 4
The young soldier on the border,
Thinks of her with feeling tender;
He valiantly defends motherland,
With Katyusha’s true love grand.

English singable translation by 10 Songs of Victory

LỜI 1
As the morning mist over the river
Fills the blooming orchards far and wide
And the trees with a morning chill still quiver,
Catherine walks out to the riverside.
(lặp lại 2 câu cuối)

LỜI 2
She comes singing songs about an eagle
Soaring proudly in the sky above
And the one in the service of his people
Whom young Catherine genuinely loves.
(lặp lại 2 câu cuối)

LỜI 3
May her songs fly over the valley
Rising high to ring out loud and clear.
May they follow her letters she can’t tally
To that soldier on the far frontier.

LỜI 4
He will see her standing by the water.
He will hear her songs from up above.
As he keeps vigil to protect our borders,
His sweet Catherine will preserve their love.

LẶP LẠI LỜI 1

Bản dịch phóng tác của Phạm Tuyên:

LỜI 1
Dòng sông xưa rừng táo trắng hoa nở đôi bờ
Lặng lờ trôi mặt nước đã loang sương mờ.
Kìa thấp thoáng bóng ai đó chính Kachiusa
Giữa trời mây bên sông lộng gió chan hòa
(lặp lại 2 câu cuối)

LỜI 2
Gửi về ai lời hát thiết tha từ xóm làng,
Từ bờ sông gửi tới cánh chim đại bàng.
Người chiến sĩ biên cương có hay chăng tấm lòng
Chốn làng quê có ai ngày nhớ đêm mong
(lặp lại 2 câu cuối)

LỜI 3
Lời ân ái hãy chắp cánh bay về phương trời,
Về rừng dương, về nơi biên cương xa vời.
Người chiến sĩ biên cương nghe chăng từ quê nhà
Khúc tình ca thiết tha của Kachiusa
Người chiến sĩ biên cương nghe chăng từ quê nhà
(lặp lại 2 câu cuối)

Lời 4
Để anh nhớ người thiếu nữ anh hằng mong chờ
Để được nghe từng tiếng hát nơi quê nhà
Vì đất nước thân yêu anh ra đi giữ gìn
Kachiusa vẫn chung thủy với mối tình
(lặp lại 2 câu cuối)

LẶP LẠI LỜI 1

Bản dịch phóng tác của Nguyễn Anh Cường (thông qua nghĩa tiếng Pháp):

Đào vừa ra hoa cành lá gió đưa vầng trăng tà
Ngoài bờ sông màn sương trắng buông lững lờ
Kìa bến sông thoáng bóng ai in trên làn sương mờ
Cất cao lời ca làm rung cỏ cây ven bờ
Lời hát trong phút giây bay qua làn sương mờ
Biết chăng chàng hỡi tình Ka chiu sa đang chờ.

Ngày này năm xưa chàng đã ra đi miền biên thùy
Vì quê hương dù mấy khó nguy không sờn
Này hỡi ai nhắn cho ta mấy câu về phương trời
Đến tay người yêu rằng ta nhớ thương đêm ngày
Rằng chớ quên duyên xưa ở bên dòng sông này
Giữ yên làng quê tình Ka chiu sa đang chờ.

French literal translation by Lucie C:

Pommiers et poiriers en fleur étaient beaux,
Le brouillard flottait au-dessus de la rivière.
Katusha a gravi la pente de pierres,
Et a chanté avec joie au bord de l’eau.

Son chant mélodieux résonne étonnamment,
Il parle des aigles au-dessus de la prairie,
Et de son bien-aimé là-bas, au loin parti,
Dont les lettres sont portées prudemment.

La mélodie si douce et si claire
S’envole avec les rayons de soleil,
Vers le soldat à la frontière,
Lui apportant une ardeur qui l’émerveille.

Le jeune soldat à la frontière
Pense à elle avec tendresse tous les jours.
Il défend sa patrie, vaillant et fier,
Grâce à Katusha et son grand amour.

German literal translation by Lucie C:

Apfel- und Birnbäume blühten schon,
Nebel schwebte über dem Flüsslein.
Katjuscha stieg auf den Hügel aus Stein,
Und sie sang am Ufer mit frohem Ton.

Esperanto literal translation by Ciao

Pomaj kaj piraj arboj floris,
Nebuletoj sur la riveroj deĵoris.
Katjusha alten iris al marbordo
Kaj kantis sur krutaĵo kun akordo.

Bản dịch phóng tác tiếng Trung

正當梨花開遍了天涯,河上飄著柔曼的輕紗;
喀秋莎站在那竣峭的岸上,歌聲好像明媚的春光。

姑娘唱著美妙的歌曲,她在歌唱草原的雄鷹;
她在歌唱心愛的人兒,她還藏著愛人的書信。

啊這歌聲姑娘的歌聲,跟著光明的太陽飛去吧;
去向遠方邊疆的戰士,把喀秋莎的問候傳達。

駐守邊疆年輕的戰士,心中懷念遙遠的姑娘;
勇敢戰鬥保衛祖國,喀秋莎愛情永遠屬於他

Bản chuyên nghĩa nguyễn gốc (khớp nhạc và hát được) của Thiện-Duyên (có tham khảo lời gốc, các bản dịch nghĩa tham khảo đối chiếu, cũng như bản dịch phóng tác của Phạm Tuyên & Nguyễn Anh Cường)

LỜI 1
Nhành lê bên rừng táo nở hoa từ bao giờ
Lặng lờ trôi mặt nước đã loang sương mờ.
Ngoài bến sông bước đôi chân lướt nhanh Thuần-Nhi đẹp mĩ miều
Ở bên triền cao đồi dốc dáng ai yêu kiều
(lặp lại 2 câu cuối)

LỜI 2
Lời ai ca nồng ấm thiết tha và vang lừng (Lời ai ca nồng ấm thiết tha từ thôn làng)
Về loài chim lượn khắp thảo nguyên reo mừng (Về đồng xanh màu xám cánh chim đại bàng)
Và dáng ai luyến thương đang ở nơi miền quê nào
Tín thư còn đây gìn giữ vẫn chưa phai màu
(lặp lại 2 câu cuối)

LỜI 3
Lời ca vang từ thiếu nữ nơi một phương trời
Dần bay cao cùng ánh thái dương xuân ngời
Vượt gió sương đến chinh nhân ở nơi miền biên thùy
Trái tim Thuần-Nhi nhiệt huyết hỏi thăm nhu mì
(lặp lại 2 câu cuối)

Lời 4
Để ai mong người thiếu nữ tâm hồn đơn thuần
Để được nghe lời hát vút cao vang ngần
Để vững tin những chinh nhân giữ yên miền quê mình
Vững tin Thuần-Nhi ngày đó vẫn luôn chung tình
(lặp lại 2 câu cuối)

(còn chỉnh sửa)

* Tên của nhân vật nữ chính trong bài hát có từ nguyên phù hợp nghĩa là “đơn thuần“, do đó chúng tôi đề xuất sử dụng tên tương đương trong tiếng Việt Nam là “Thuần-Nhi”. Do đó, tên bài hát sẽ trở thành “Thuần-Nhi ca” để thể hiện là bài hát nói về tâm sự của “Thuần-Nhi”.

Miễn là có nhau (phiên bản ca kịch cải lương)


Bài hát chuyển thể từ đoạn thơ cây dừa nước của Nguyễn Trung Hậu. Lấy cảm hứng thêm từ văn học dân gian và câu nói: “Trăm năm tri kỉ khó tìm, tri âm khó kiếm, bạn hiền khó quen.”

Hát theo điệu cải lương:

Miễn là có nhau, đi về cùng đường. Cùng qua đắng cay, chua ngọt tỏ tường.
Lúc nhiều khổ đau, có người sẻ chia. Lúc vui sao bằng bên người tri âm.

Khó bên người tri kỉ như trời xanh trăm năm.
Khó bên người tri kỉ như mùa trăng sáng rằm.

Người thân bao năm biết đâu có tiễn đưa lúc ta lìa trần
Người thân bao năm biết đâu sau ngàn năm nhớ tên phù vân

Nếu có… bên nhau… đời ta cũng vô thường thôi
Còn nếu… xa nhau… đời ta cũng vô thường thôi

הבה נגילה – Chung vui tấu lên nào 让我们欢乐 – Together let’s play


Bài hát do cộng đồng người theo hệ phái Đạo-Đức (Hassidic) triều Klausenberg vùng phía tây Biên-Quốc (Ukraine) sáng tác với phần giai điệu bắt tai bắt nguồn từ điệu nhạc (nigun) cầu nguyện không lời của phong trào phục hưng tinh thần Cầu-Nhập-Văn-Luận Kính-Sợ (Haredi Jews) giữa thế kỉ XIX. Phần giai điệu xuất phát từ thị trấn Sadgora, Bukovina (Ukraine) đến Palestine thì có thêm phần lời biểu đạt trạng thái hạnh phúc như hiện tại, sau đó trở thành bài hát rộng rãi trong cộng đồng người Cầu-Nhập-Văn-Giáo (Judaism/Jews) khắp thế giới.

Bản chuyển nghĩa nguyên gốc (khớp nhạc và hát được) của Thiện Duyên thực hiện theo nguyên tắc chính niệm ca từ. Hoàn thành lần đầu ngày 19/06/2021 và chỉnh lí lần cuối ngày 24/06/2021.

הבה נגילה
הבה נגילה
הבה נגילה ונשמחה
(hát 2 lần)

הבה נרננה
הבה נרננה
הבה נרננה ונשמחה
(hát 2 lần)

!עורו, עורו אחים
עורו אחים בלב שמח (x4)
!עורו אחים, עורו אחים
בלב שמח

Phiên âm

Hava nagila
Hava nagila
Hava nagila ve-nismeḥa
(hát 2 lần)

Hava neranenah
Hava neranenah
Hava neranenah ve-nismeḥa
(hát 2 lần)

Uru, uru aḥim!
Uru aḥim be-lev sameaḥ (x4)
Uru aḥim, uru aḥim!
Be-lev sameaḥ

Dịch nghĩa tham khảo:

Let’s rejoice
Let’s rejoice
Let’s rejoice and be happy

Let’s sing
Let’s sing
Let’s sing and be happy

Awake, awake, my brothers!
Awake my brothers with a happy heart (x4)
Awake, my brothers, awake, my brothers!
With a happy heart

让我们欢乐
让我们欢乐
让我们欣喜欢乐

让我们歌唱
让我们歌唱
让我们欢乐歌唱

醒来,醒来,兄弟们!
醒来,快乐的兄弟们!

醒来,兄弟们!醒来,兄弟们!
欣喜而快乐!

Bản chuyển nghĩa nguyên gốc (khớp nhạc và hát được) của Thiện Duyên:

Chung vui tấu lên nào
Chung vui tấu lên nào
Chung vui tấu lên nào hòa niềm vui sướng (vui cười)
(hát 2 lần)

Chung vui hát lên bên nhau
Chung vui hát lên cùng màu
Đoàn ta chung một lời hát chan niềm vui sướng (sướng vui)
(hát 2 lần)

Đừng u sầu nữa huynh đệ
Đừng sầu nữa cho lòng sướng vui nào (x4)
Đừng sầu rũ, đoàn bằng hữu!
Cùng hòa lòng sướng vui.

Singable translation suggested by Nemo:

Together let’s play
Together let’s play
Together let’s play and be happy
(hát 2 lần)

Together let’s sing out
Together let’s sing out
Together let’s sing out and be happy
(hát 2 lần)

Awake, awake my friends
Awake my friends with a happy heart (x4)
Awake my friends, awake my friends
With a happy heart

Greenfields – Đồng xanh


Bài hát tạo nên tên tuổi của nhóm nhạc Tứ Huynh Đệ (Brothers Four) trong phong trào phục hưng dân ca đô thị thế giới giữa thế kỉ XX. Một trong các tác phẩm của thời kì này có liên quan đến Việt Nam chính là bài “Vũ ca Hồ Chí Minh“.

Nội dung bài hát “Đồng xanh” nói về một chuyện tình trên thảo nguyên xanh với giai điệu nhẹ nhàng, man mác buồn. Lời bài hát mô tả tâm trạng của một người nhớ lại cảnh vật êm đềm khi còn sống những ngày tháng hạnh phúc bên cạnh người mình yêu, chua xót nhìn cảnh vật hiện tại khắc nghiệt hẳn vì người yêu đã bỏ đi, và ao ước mong đợi ngày được gặp lại nhau, để cánh đồng xanh tươi trở lại.

Bản dịch phóng tác sang tiếng Việt của Lê Hựu Hà năm 1974 được giới phê bình đánh giá là “mẫu mực của việc chuyển thể lời Việt cho nhạc ngoại, đã tái hiện được các hình ảnh trong ca khúc gốc, lại có thể truyền tải được ý nghĩa chính của bài ca bằng những ngôn từ rất bình dị, gần gũi với người nghe nhạc Việt.” Tuy nhiên, ca từ phóng tác theo trường phái đơn thuần nhạc lí đã sửa đổi nguyên gốc khá nhiều giống như trường hợp bản dịch phóng tác bài “Phiên chợ Cứ-Điểm” của nhạc sĩ Phạm Duy.

Bản chuyển nghĩa nguyên gốc (khớp nhạc và hát được) của Thiện Duyên thực hiện theo nguyên tắc chính niệm ca từ. Hoàn thành lần đầu ngày 26/05/2021 và chỉnh lí lần cuối ngày ngày 26/05/2021.

Lời gốc của Easy Riders (Terry Gilkyson – Rich Dehr – Frank Miller, 1956)

Once there were green fields kissed by the sun.
Once there were valleys where rivers used to run.
Once there were blue skies with white clouds high above.
Once they were part of an everlasting love.
We were the lovers who strolled through green fields.

Green fields are gone now, parched by the sun.
Gone from the valleys where rivers used to run.
Gone with the cold wind that swept into my heart.
Gone with the lovers who let their dreams depart.
Where are the green fields that we used to roam ?

I’ll never know what made you run away.
How can I keep searching when dark clouds hide the day.
I only know there’s nothing here for me.
Nothing in this wide world, left for me to see.

Still I’ll keep on waiting until you return.
I’ll keep on waiting until the day you learn.
You can’t be happy while your heart’s on the roam,
You can’t be happy until you bring it home.
Home to the green fields and me once again.

Bản dịch phóng tác của Lê Hựu Hà (1974):

Đồng xanh là chốn đây / Thiên đàng cỏ cây
Chìm trong bầy thú hoang / Vui đùa trong nắng hây
Đây những con suối vắng / Đang phơi mình bên lùm cây
Đây những dòng nước mát / Khẽ trôi êm về thung lũng
Và những đôi nhân tình đang lắng hồn dưới mây chiều

Đồng xanh giờ vắng đi / Với trời lãng quên
Còn đâu bầy thú hoang / Đã vui đùa trong nắng êm
Đâu những bờ suối vắng / Phơi mình bên lùm cây
Đâu những dòng nước mát / Khẽ trôi êm về thung lũng
Và những đôi nhân tình nay đã lìa chốn xưa rồi

Ta yêu đồng xanh / Như đã yêu từng con người
Ta thương đôi tình nhân kia / Như gió thương làn mây trời
Nhưng sao giờ đây / Nào thấy ai chung quanh ta
Đất trời như bãi tha ma / Trên đồng hoang khô cháy

Giờ ta còn đứng đây / Giữa trời hắt hiu
Đời không còn chút vui / Đã khô cằn trong trái tim
Sao ta còn đứng mãi / Như người tình mong chờ ai
Sao ta còn đứng mãi / Lắng nghe tâm hồn tê tái
Và đã bao lâu rồi ta đứng chờ giữa cánh đồng.

Bản chuyển nghĩa nguyên gốc (khớp nhạc và hát được) của Thiện Duyên: (có tham khảo phiên bản của Lê Hựu Hà)

Đồng xanh từng ở đây dưới trời nắng hanh
Từng bên bờ dốc sơn cốc phơi mình bên suối quanh
Cao tít mây trắng xóa trên nền trời đây từng xanh
Từng trong tình nhân gian ái ân muôn đời vai sánh
Đồng cỏ xanh nơi mình rong chơi bước song hành

Đồng xanh giờ héo khô dưới trời nắng hanh
Lìa xa bờ dốc sơn cốc phơi mình bên suối quanh
(Lìa xa bờ dốc sơn cốc quanh năm còn phơi ánh)
Xa vắng cơn gió buốt đang dập vùi tim lạnh tanh
Xa vắng tình nhân gian giấc mơ không còn vai sánh
Đồng cỏ xanh đâu rồi xưa ta bước song hành?

Khi ai rời xa nơi ấy riêng ta chẳng hay
Sao ta đi tìm nguyên do trong đám mây đen chốn này
Khi ta nhận ra sao chỉ hư không quanh đây
Đất trời hoang vắng cô liêu tiêu điều người không thấy
(Đất trời hoang vắng tiêu điều tiêu điều người không thấy)

Mà rồi ta còn ngóng trông ai về chốn xưa
Rồi ta còn ngóng trông đến bao giờ ai biết chưa
(Rồi ta còn ngóng trông biết bao nhiêu tình chan chứa)
Làm sao mà vui khi tâm hồn còn trên đường xa
Làm sao mà vui khi vẫn chưa lui về nguyên xá
Cùng với ta bên đồng xanh nơi chốn quê nhà

* Trong ngoặc là ca từ khớp với thay đổi thanh điệu câu hát theo bản của Ekaterina Shelehova.

דאָנאַ דאָנאַ – Ngưu-Nhi Ngưu-Nhi


Bài hát do Sholom Secunda phổ từ thơ của Aaron Zeitlin cho vở nhạc kịch “Esterke” vào khoảng năm 1940-1941.

Nội dung gốc của bài hát là triết lí và ước vọng về tự do qua hình thức tâm sự của một chú bò con, bị đem ra chợ bán. Hàm ý sâu xa của bài hát còn muốn nói tới nhận thức chính mình trong thế giới hữu hạn để có được tự do đích thực, một ý niệm triết học siêu hình tương đồng trong nhiều trường phái học thuật khai phóng.

Phiên bản lời mới tiếng Pháp nổi tiếng phóng tác thành câu chuyện của một bé trai có ước muốn trở thành người lớn, nhưng khi đạt được giấc mơ cậu lại hối tiếc vì đã vứt bỏ quãng đời thơ ấu quá đỗi đẹp đẽ. Hai bản dịch phóng tác sang tiếng Việt nổi tiếng của nhạc sĩ Tuấn Dũng (1960) và Trần Tiến (1992) dựa hoàn toàn theo bản tiếng Pháp (do tưởng nhầm rằng đây là lời gốc) nên cũng xuyên tạc luôn bản gốc tiếng Yiddish đối với những người không hiểu bản tiếng Anh (dịch gần sát nghĩa gốc). Năm 2009, vẫn còn có tác giả nhận định bàng tiếng Pháp (lời mới khác hoàn toàn) là bản gốc của lời tiếng Anh (dịch sát theo bản gốc Yiddish).

Bản chuyển nghĩa nguyên gốc (khớp nhạc và hát được) của Thiện Duyên thực hiện theo nguyên tắc chính niệm ca từ. Hoàn thành lần đầu ngày 22/05/2021 và chỉnh lí lần cuối ngày ngày 24/05/2021.

Nguyên bản tiếng Yiddish (còn gọi là “דאָס קעלבל”) của Sholom Secunda (phổ thơ Aaron Zeitlin) năm 1940-1941:

אױפֿן פֿורל ליגט דאָס קעלבל,
ליגט געבונדן מיט אַ שטריק.
הױך אין הימל פֿליט דאָס שװעלבל,
פֿרײט זיך, דרײט זיך הינט נאָך צריק.

Điệp khúc 1:
לאַכט דער װינט אין קאָרן,
לאַכט און לאַכט און לאַכט,
לאַכט ער אָפּ אַ טאָג אַ גאַנצן
מיט אַ האַלבע נאַכט.

Điệp khúc 2:
דאָנאַ, דאָנאַ, דאָנאַ,…

שרײַט דאָס קעלבל, זאָגט דער פּױער:
װער זשע הײסט דיר זײַן אַ קאַלב?
װאָלסט געקענט דאָך זײַן אַ פֿױגל,
װאָלסט געקענט דאָך זײַן אַ שװאַלב.

Lặp lại Điệp khúc 2

בלינדע קעלבער טוט מען בינדן
און מען שלעפּט זײ און מען שעכט,
װער ס’האָט פֿליגל, פֿליט אַרױפֿצו,
איז בײַ קײנעם ניט קײן קנעכט.

Lặp lại Điệp khúc 2

Bản dịch của Arthur Kevess và Teddi Schwartz (1956):

On a wagon bound for market
There’s a calf with a mournful eye
High above him there’s a swallow
Winging swiftly through the sky

Điệp khúc 1:
How the winds are laughing
They laugh with all their might
Laugh and laugh the whole day through
And half the summer’s night

Điệp khúc 2:
Donna, Donna, Donna, Donna
Donna, Donna, Donna, Don
Donna, Donna, Donna, Donna
Donna, Donna, Donna, Don

“Stop complaining”, said the farmer
Who told you a calf to be?
Why don’t you have wings to fly with
Like the swallow so proud and free?

Lặp lại Điệp khúc 2

Calves are easily bound and slaughtered
Never knowing the reason why
But whoever treasures freedom
Like the swallow has learned to fly

Lặp lại Điệp khúc 2

Lời dịch phóng tác tiếng Pháp

Il était une fois un petit garçon
Qui vivait dans une grande maison
Sa vie n’était que joie et bonheur
Et pourtant au fond de son cœur

Điệp khúc 1:
Il voulait devenir grand
Rêvait d’être un homme.
Chaque soir il y pensait
Quand sa maman le berçait

Điệp khúc 2:
Donna Donna Donna Donna
Tu regretteras le temps
Donna Donna Donna Donna
Où tu étais un enfant…

Puis il a grandi, puis il est parti
et il a découvert la vie
Les amours déçues, la faim et la peur
et souvent au fond de son cœur

Il revoyait son enfance
Rêvait d’autrefois
Tristement il y pensait
et il se souvenait

Lặp lại Điệp khúc 2

Parfois je pense à ce petit garçon,
Ce petit garçon que j’étais.

Bản dịch phóng tác tiếng Việt của nhạc sĩ Trần Tiến và Tuấn Dũng là theo bản tiếng Pháp này.

Lời dịch phóng tác tiếng Nga của Anatoly Pinsky:

Вот на рынок катит бричка,
Грустный в ней телок лежит.
А высоко в небе птичка,
Вьется ласточка, кружит.

Điệp khúc 1:
Как смеется ветер,
Гонит тучи прочь.
Он смеется день и вечер,
И еще всю ночь.

Điệp khúc 2:
Дона-дона, дона-дона,
Дона-дона, дона-дон.
Дона-дона, дона-дона,
Дона-дона, дона-дон.

“Хватит хныкать, – крикнул возчик –
На кого тебе пенять?
Сам родился ты теленком,
Сам не хочешь, брат, летать”.

Lặp lại Điệp khúc 1

Lặp lại Điệp khúc 2

И зачем телят зарежут,
Им никто не объяснит.
А кому мила свобода,
Тот, как ласточка взлетит.

Lặp lại Điệp khúc (x2)

Bản chuyển nghĩa nguyên gốc (khớp nhạc và hát được) của Thiện Duyên:

LỜI 1
Ở một toa xe đi phố chợ nơi thôn trang
Có một chú bê u sầu ai oán
Ngước nhìn lên cao xanh có một cành chim én
Đang sải cánh thong dong qua khung trời

Điệp khúc 1:
Sao thanh âm gió lay ngô đồng
Cười ầm rền ngất ngư mênh mông
Nghe vang xa tiếu thanh qua ngày
Ru giấc nửa đêm sang hè

Điệp khúc 2:
Ngưu-Nhi, Ngưu-Nhi, Ngưu-Nhi, này bê hỡi
Lời trần tình một thoáng cơn mê
Ngưu-Nhi, Ngưu-Nhi, Ngưu-Nhi, này bê hỡi
Nếu là bê hãy luôn yên bề

LỜI 2
Tiếng bàn người nông dân: Hãy ngừng lời than thân
Không tự vấn bê con làm sao bay
Nếu được vui không trung khắp trời ta tung cánh
Như loài én kia thong dong xa gần

Lặp lại Điệp khúc 1

Lặp lại Điệp khúc 2

LỜI 3
Tủi phận loài bê con, miếng mồi ngon thương mến
Lên giàn hỏa thiêu không cần nguyên cớ
Chớ ngại ngần bay lên, nếu đời cho đôi cánh
Muôn đời sống thong dong không ưu phiền

Lặp lại Điệp khúc 2

* Ngưu-Nhi có thể hát thành “bê con” hoặc hát theo bản gốc.

* Lời 3 nếu dịch theo bản tiếng Anh:
Dễ dàng loài bê con miếng mồi ngon trên bếp
Không cần biết đuôi đầu nguyên cớ
Nếu tự do ta yêu, chỉ cần ta tung cánh
Như loài én bay đi xa lâu rồi